Rotavirus là nguyên nhân hàng đầu gây tiêu chảy nặng, nhập viện thậm chí tử vong ở trẻ nhỏ trên toàn cầu cũng như ở Việt Nam. Trẻ bị tiêu chảy cấp do Rotavirus có tỷ lệ nhập viện cao gấp ba lần so với tiêu chảy do nguyên nhân khác. Tại Việt Nam, 55% trường hợp tiêu chảy cấp nhập viện ở trẻ nhỏ là do Rotavirus.
Tiêu chảy cấp là một bệnh rất phổ biến, đứng hàng thứ hai sau nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính ở trẻ em, là bệnh có tỷ lệ mắc và tử vong cao. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới hàng năm trên thế giới có khoảng 1,5 tỷ lượt trẻ dưới 5 tuổi mắc tiêu chảy và 4 triệu trẻ chết vì bệnh này trong đó 80% xảy ra ở trẻ dưới 2 tuổi. Đây cũng là nguyên nhân của 2,4 triệu ca nhập viện ở trẻ em dưới 5 tuổi hàng năm trên toàn thế giới.
Nhiễm Rotavirus gây tử vong 453.000 trẻ em dưới 5 tuổi trên thế giới mỗi năm và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại các nước đang phát triển. Nguyên nhân chính gây tử vong khi trẻ bị tiêu chảy là mất nước và điện giải, tiếp theo là suy dinh dưỡng (SDD). SDD và tiêu chảy tạo thành một vòng xoắn bệnh lý: tiêu chảy dẫn đến SDD và khi trẻ bị SDD lại có nguy cơ bị tiêu chảy cao, gây ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng của trẻ và là gánh nặng về kinh tế đối với gia đình và xã hội.
Dịch tễ học
– Nguồn bệnh: Người và một số động vật như bò, cừu, khỉ, chó…. có thể là ổ chứa virus. Virus rota có thể gây bệnh trên động vật như khỉ, trâu, bò, cừu, ngựa, chuột, chó, mèo, thỏ…. chưa trưởng thành và có thể từ đó lây bệnh cho người. Rota virus ở động vật có thể lây truyền trực tiếp sang người hoặc tái tổ hợp với các chủng rota gây bệnh trên người.
– Lứa tuổi mắc bệnh: Lứa tuổi hay mắc tiêu chảy do Rotavirus là nhóm trẻ từ 6 tháng đến 36 tháng. Nhiễm rota virus có thể gặp ở trẻ sơ sinh và người lớn nhưng thường không có triệu chứng.
Ở Việt Nam có sự khác biệt về mùa mắc tiêu chảy do rotavirus giữa 2 miền nam bắc. Tỷ lệ mắc tiêu chảy do virus rota tăng cao vào mùa đông xuân ở miền Bắc, cao nhất từ tháng 9-11trong khi đó ở miền Nam bệnh không phụ thuộc theo mùa.
– Đường lây truyền: Virus rota chủ yếu lây truyền qua đường phân-miệng, ngoài ra virus có thể lây qua đường hô hấp. Virus rota có thể lây ngoài cộng đồng hoặc lây chéo trong bệnh viện.
– Miễn dịch của cơ thể với Rotavirus: Trẻ dưới 3 tháng ít bị bệnh vì có sẵn kháng thể của mẹ truyền cho. Các loại kháng thể đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ gồm
Kháng thể tiết IgA: có trong sữa mẹ và có thể tồn tại đến 24 tháng do đó trẻ bú sữa mẹ có thể được bảo vệ trước sự tấn công của rotavirus. IgA tiết ở niêm mạc ruột non có vai trò chính bảo vệ chống nhiễm virus rota.
Kháng thể dịch thể: IgM xuất hiện sớm trong máu đạt nồng độ cao nhất trong giai đoạn cấp tính và giảm dần sau 10 ngày. IgG đạt nồng độ thấp trong giai đoạn cấp và tăng cao trong giai đoạn hồi phục.
Các yếu tố nguy cơ
– Trẻ bú bình không đảm bảo vệ sinh, nguy cơ tiêu chảy cao gấp nhiều lần so với trẻ bú mẹ hoàn toàn hoặc không bú bình.
– Ăn bổ sung không đúng cách: cho trẻ ăn thức ăn nấu để lâu ở nhiệt độ phòng, thức ăn bị ô nhiễm trước và sau khi chế biến.
– Nước uống không sạch (không đun sôi hoặc để lâu), hoặc nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm.
– Dụng cụ, tay người chế biến thức ăn bị nhiễm bệnh.
– Xử lý chất thải đã nhiễm bệnh không đúng cách, quan niệm phân trẻ em không bẩn như phân người lớn.
– Không có thói quen rửa tay sau khi đi vệ sinh, trước khi chế biến thức ăn, trước khi cho trẻ ăn…
Triệu chứng lâm sàng
Rotavirus gây viêm dạ dày ruột rất đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các triệu chứng tiêu chảy phân nước, sốt và nôn. Triệu chứng thường xuất hiện sau giai đoạn ủ bệnh 2-3 ngày và kéo dài khoảng 5-7 ngày. Mức độ nghiêm trọng của bệnh có thể từ không triệu chứng đến tiêu chảy mất nước nặng có thể dẫn đến tử vong. Nôn và đi ngoài phân tóe nước là 2 đặc điểm lâm sàng thường gặp trong viêm dạ dày ruột cấp do rotavirus mà ít thấy trong các căn nguyên khác. Thông thường trẻ khởi phát bệnh với triệu chứng nôn và sốt sau đó là tiêu chảy tóe nước nhiều lần trong ngày có thể kéo dài đến 10 ngày. Phân thường không có nhày máu. Hầu hết những trẻ phải nhập viện vì tiêu chảy do rotavirus có cả 3 triệu chứng tiêu chảy, nôn và sốt.
Sốt là biểu hiện khá phổ biến của trẻ nhiễm Rotavirus. Kết quả từ các nghiên cứu trong nước và trên thế giới cho thấy hầu như tất cả các bệnh nhân tiêu chảy cấp do Rotavirus có sốt trong đó gần 50% các trường hợp có biểu hiện sốt nhẹ ≤ 38,5oC. Các triệu chứng thường gặp khác như nôn (100%), biếng ăn (97,67%), khó chịu (90,7%). Tiêu chảy cấp do Rotavirus là nguyên nhân gây mất nước đứng hàng thứ 2 sau tả do số lần tiêu chảy trong ngày thường từ 10-20 lần, một số trường hợp trẻ có thể đi ngoài trên 20 lần/ngày.
Khi mắc tiêu chảy có thể gây ảnh hưởng đến tình trạng toàn thân của trẻ như suy dinh dưỡng và các biểu hiện khác. Vì vậy trẻ cần được đánh giá các biểu hiện sau:
– Tình trạng dinh dưỡng và thiếu các yếu tố vi lượng:
+ Cân nặng của bệnh nhân giảm khi bị tiêu chảy
+ SDD Protein năng lượng, Marasmus, Kwashiokor
+ Thiếu vitamin A, D
– Sốt và các biểu hiện nhiễm khuẩn kèm theo
– Nhiễm toan chuyển hóa: thở mạnh, sâu, môi đỏ
– Thiếu Kali: trướng bụng, liệt ruột cơ năng, loạn nhịp tim, nhược cơ toàn thân
– Mức độ mất nước: Căn cứ vào các dấu hiệu mất nước để phân loại mất nước cho trẻ bị tiêu chảy
+ Không mất nước
+Có mất nước
+ Mất nước nặng
– Để đánh giá mức độ mất nước của trẻ cần:
+ Quan sát toàn trạng trẻ: trẻ tỉnh táo bình thường khi chưa có mất nước, vật vã kích thích khi có mất nước hoặc mệt lả li bì khi mất nước nặng
+ Khát nước: cho trẻ uống nước bằng cốc hoặc thìa để đánh giá mức độ khát của trẻ. Trẻ uống bình thường khi trẻ uống nhưng không thích lắm hoặc từ chối uống khi cho trẻ nước khi trẻ chưa có biểu hiện mất nước. Trẻ khát nước uống một cách háo hức, vồ lấy cốc hoặc thìa để uống hoặc khóc khi ngừng cho trẻ uống khi trẻ có biểu hiện mất nước vừa. Trẻ có thể không uống hoặc uống kém do trẻ li bì khi mất nước nặng.
+ Đánh giá độ chun giãn của da trẻ bằng cách véo da của trẻ ở vùng bụng theo chiều dọc cơ thể rồi bỏ tay. Bình thường nếp véo da mất nhanh, khi trẻ bị mất nước mức độ vừa nếp véo da sẽ mất chậm (dưới 2 giây) hoặc rất chậm (trên 2 giây) khi mất nước nặng.
+ Mắt trẻ có trũng hơn bình thường không
+ Quan sát xem trẻ khóc có nước mắt không. Khi trẻ khóc to mà không có nước mắt là trẻ đã bị mất nước mức độ trung bình
+ Quan sát miện lưỡi của trẻ xem có khô không. Miệng lưỡi khô khi trẻ có biểu hiện mất nước
+ Thóp của trẻ cõ trũng hơn bình thường không với những trẻ còn thóp.
TS.BS Nguyễn Thị Việt Hà