Trang chủ » Bản tin thông tin thuốc » Hiệu quả của chiến lược điều trị sớm dựa trên phân tầng nguy cơ trong điều trị còn ống động mạch ở trẻ sinh non: Kết quả từ một nghiên cứu quan sát

Hiệu quả của chiến lược điều trị sớm dựa trên phân tầng nguy cơ trong điều trị còn ống động mạch ở trẻ sinh non: Kết quả từ một nghiên cứu quan sát

1. Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu

Còn ống động mạch (Patent Ductus Arteriosus – PDA) là một bệnh lý thường gặp ở trẻ sinh non và có liên quan đến các biến cố nghiêm trọng như loạn sản phổi và bệnh phổi mạn (chronic lung diseases – CLD), viêm ruột hoại tử, chấn thương sọ não và tử vong. Tuy nhiên, mối quan hệ nhân quả giữa PDA và các biến cố này vẫn chưa rõ ràng. Tiêu chuẩn xác định các trường hợp PDA có ảnh hưởng rõ rệt tới huyết động còn chưa được chuẩn hóa và thống nhất, và việc điều trị PDA sớm vẫn còn nhiều tranh cãi. Thang điểm PDAsc (PDA Severity Score) được EL-Khuffash và cộng sự xây dựng nhằm xác định các trẻ sinh non <29 tuần tuổi thai có nguy cơ cao gặp các biến cố bất lợi, đã được chứng minh tính nhất quán, dễ thực hiện và cho kết quả vượt trội so với phương pháp chỉ dựa vào kích thước ống động mạch.1 Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu đánh giá hiệu quả của chiến lược điều trị PDA sớm dựa trên phân loại mức độ nguy cơ bằng thang điểm PDAsc.

2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu quan sát, tiến cứu, thực hiện tại khoa Hồi sức sơ sinh cấp III, Bệnh viện Rotunda, Dublin, Ireland. Trẻ sinh non <29 tuần tuổi thai trong giai đoạn từ tháng 7/2020 đến tháng 3/2024 được đưa vào nhóm được điều trị sớm. Nhóm tham chiếu gồm trẻ sinh non <29 tuần tuổi thai từ trước năm 2015 (nhóm không được điều trị sớm) được lựa chọn do đây là giai đoạn ủng hộ phương pháp điều trị bảo tồn. Trẻ được loại khỏi nghiên cứu nếu có các bệnh lý tim bẩm sinh phụ thuộc ống động mạch, hoặc không có kết quả siêu âm tim ban đầu, hoặc có tăng áp phổi.

Phân tầng nguy cơ được thực hiện bằng thang điểm PDAsc sử dụng kết quả siêu âm tim trong vòng 24-48 giờ đầu. PDAsc được tính theo công thức:

(Tuổi thai (tuần) × -1.304) + (đường kính PDA (mm) × 0.781) + (cung lượng thất trái (ml/kg/min) × 0.008) + (vận tốc dòng chảy tối đa qua PDA (m/s) × -1.065) + (sóng A thất trái (cm/s) × -0.470) + 41

Trẻ có điểm ≥5 được coi là nguy cơ cao và điều trị sớm bằng ibuprofen hoặc paracetamol, trong khi trẻ có điểm <5 không được điều trị. Liều ibuprofen tĩnh mạch khởi đầu là 10 mg/kg ngày đầu và 5 mg/kg mỗi 24 giờ trong ngày 2 và 3. Sử dụng đợt ibuprofen thứ hai nếu PDA còn mở sau đợt dùng thứ nhất. Bệnh nhân chống chỉ định với ibuprofen sẽ được dùng paracetamol liều 15 mg/kg mỗi 6 giờ tới khi đủ 12 liều. Bệnh nhân được coi là thất bại điều trị còn ống động mạch nếu ống động mạch còn mở trên hình ảnh siêu âm tim vào 24 giờ sau liều thuốc cuối cùng. Trong nhóm tham chiếu, bệnh nhân được chỉ định dùng thuốc điều trị còn ống động mạch theo đánh giá của bác sĩ điều trị (thường sau 7 – 10 ngày).

Kết quả chính của nghiên cứu là ảnh hưởng của biện pháp điều trị sớm dựa trên phân tầng nguy cơ lên các bệnh lý hô hấp: tỉ lệ mắc bệnh phổi mạn (định nghĩa là khi bệnh nhân cần hỗ trợ oxy ở tuần thai 36 hiệu chỉnh), số ngày thở máy và số ngày cần hỗ trợ oxy (bằng tất cả các phương pháp).

3. Kết quả chính

Tổng cộng có 110 trẻ nguy cơ cao và 74 trẻ nguy cơ thấp trong nhóm điều trị sớm, trong đó 58 trẻ nguy cơ cao có đáp ứng với điều trị, 52 trẻ thất bại điều trị. Có 84 trẻ nguy cơ cao và 51 nguy cơ thấp trong nhóm tham chiếu.

Đặc điểm lâm sàng các bệnh nhân có nguy cơ cao:

Bệnh nhân nguy cơ cao ở nhóm điều trị sớm có tuổi thai (25,6 ± 1,4 so với 26,2 ± 1,3 tuần; p=0,002) và cân nặng khi sinh (779 ± 188g so với 880 ± 188g; p<0,001) thấp hơn rõ rệt so với nhóm tham chiếu. Ngoài ra, pH động mạch của nhóm điều trị sớm thấp hơn nhóm tham chiếu, trong khi tỷ lệ sử dụng steroid trước sinh viêm màng ối đều cao hơn ở nhóm điều trị sớm.

So sánh hiệu quả về hô hấp của nhóm điều trị sớm và nhóm tham chiếu trên bệnh nhân nguy cơ cao:

Biện pháp điều trị sớm PDA trên trẻ nguy cơ cao liên quan đến việc cải thiện các tiêu chí đường hô hấp so với nhóm tham chiếu. Tỷ lệ bệnh phổi mạn dù khác biệt không có ý nghĩa thống kê nhưng thể hiện xu hướng cải thiện hơn ở nhóm điều trị sớm ống động mạch (Bảng 1).

So sánh hiệu quả về hô hấp của nhóm điều trị sớm thành công và nhóm điều trị sớm không thành công:

Hiệu quả về hô hấp của nhóm điều trị sớm thể hiện rõ rệt trên những bệnh nhân đóng ống động mạch thành công (Bảng 2).

Ở nhóm nguy cơ thấp: Hiệu quả về hô hấp của nhóm điều trị sớm và tham chiếu không có sự khác biệt đáng kể

4. Kết luận và kiến nghị

Việc áp dụng chiến lược điều trị PDA sớm dựa trên phân tầng nguy cơ giúp cải thiện kết quả trên hô hấp ở trẻ sinh non nguy cơ cao. Trong khi đó, nhóm nguy cơ thấp có thể tránh được điều trị mà không ảnh hưởng đến kết cục. Thang điểm PDAsc chứng minh tính hữu ích lâm sàng trong việc lựa chọn bệnh nhân cần can thiệp sớm.

Khuyến nghị:

Cần thực hiện các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (RCT) quy mô lớn hơn, tập trung vào nhóm trẻ nguy cơ cao nhằm kiểm chứng xác định cho kết quả này. Tiến hành thêm các nghiên cứu sâu hơn về yếu tố tiên lượng thành công điều trị và cải tiến thang điểm PDAsc.

Biên tập: ThS.DS Trần Nhật Minh, DS. Lê Thị Nguyệt Minh
Nguồn: BMJ Paediatr Open. 2025;9. DOI: 10.1136/ bmjpo-2025-003347

Chuyên mục: Bản tin thông tin thuốc

Bài viết liên quan

Thời gian làm việc

  • Hành chính: 7h00 - 16h30 (thứ 2 - 6)
  • Khám & Cấp cứu: 24/24

BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
ĐI ĐẦU & DẪN ĐẦU

  • Đội ngũ giáo sư, chuyên gia số 1 trong ngành nhi khoa Việt Nam
  • Cơ sở vật chất, thiết bị y tế hiện đại bậc nhất
  • Các công trình nghiên cứu y khoa dẫn đầu ngành
  • Áp dụng Bảo hiểm y tế, bảo hiểm bảo lãnh đầy đủ
  • Chi phí khám chữa bệnh hợp lý nhất
  • Chăm sóc chu đáo, toàn diện cho trẻ em
Thông tin hữu ích khác