Trang chủ » Bản tin thông tin thuốc » Sugammadex trong giải phong bế thần kinh cơ ở trẻ sơ sinh và trẻ dưới 2 tuổi: Kết quả từ thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên giai đoạn IV

Sugammadex trong giải phong bế thần kinh cơ ở trẻ sơ sinh và trẻ dưới 2 tuổi: Kết quả từ thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên giai đoạn IV

1. Đặt vấn đề

Các thuốc phong bế thần kinh cơ (NMB) như rocuronium hoặc vecuronium thường được sử dụng trong các thủ thuật phẫu thuật ở trẻ sơ sinh và trẻ dưới 2 tuổi để hỗ trợ thông khí cơ học và tạo điều kiện thuận lợi cho can thiệp. Trước đây, neostigmine kết hợp với glycopyrrolate hoặc atropine là phương pháp tiêu chuẩn để giải NMB nhưng có một số hạn chế như không thể đảo ngược phong bế sâu, thời gian phục hồi chậm và nguy cơ biến cố bất lợi liên quan đến hệ cholinergic. Sugammadex, một chất đối kháng chọn lọc, đã được chứng minh an toàn và hiệu quả ở người lớn và trẻ ≥ 2 tuổi. Tuy nhiên dữ liệu về sử dụng thuốc này ở trẻ sơ sinh và trẻ < 2 tuổi vẫn còn hạn chế. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá về dược động học, tính an toàn và hiệu quả của sugammadex trong việc giải NMB vừa và sâu ở nhóm tuổi này, nhằm cung cấp bằng chứng hỗ trợ sử dụng lâm sàng và từ đó đưa ra khuyến cáo sử dụng trong thực hành gây mê nhi khoa.

2. Đối tượng và Phương pháp Nghiên cứu

2.1. Đối tượng

Đối tượng nghiên cứu: trẻ dưới 2 tuổi có tình trạng thể chất I, II hoặc III, theo Hiệp hội Gây mê Hoa Kỳ (ASA) và đều được lên kế hoạch thực hiện phẫu thuật hoặc thủ thuật không khẩn cấp có sử dụng thuốc giãn cơ có cấu trúc steroid gồm rocuronium và vecuronium ở mức độ phong bế thần kinh cơ trung bình hoặc sâu. Nghiên cứu loại trừ trẻ sinh non dưới 36 tuần tuổi thai, trẻ có bệnh lý thần kinh – cơ ảnh hưởng đến sự phong bế cơ, trẻ mắc bệnh thận nặng, hoặc có chỉ định thở máy kéo dài sau phẫu thuật.

2.2. Phương pháp Nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên giai đoạn IV, đa trung tâm, tiến cứu,chia thành hai phần (Phần A và Phần B).

Phần A: Thiết kế nhãn mở nhằm đánh giá đặc điểm dược động học, tính an toàn và khả năng dung nạp của sugammadex với liều 2 mg/kg cho tác dụng phong bế trung bình và 4 mg/kg cho tác dụng phong bế sâu. Đối tượng được phân thành 4 nhóm tuổi: 0 đến 27 ngày tuổi; 28 ngày đến <3 tháng; 3 tháng đến <6 tháng; 6 tháng đến <2 tuổi.

Phần B: Thiết kế mù đôi, đối chứng so sánh. Trẻ được phân ngẫu nhiên vào một trong ba nhóm theo tỷ lệ 1:1:1 như sau:(1) Phong bế thần kinh – cơ mức trung bình và sử dụng sugammadex 2 mg/kg để hồi phục;  (2) Phong bế thần kinh – cơ mức trung bình và sử dụng neostigmine phối hợp với glycopyrrolate hoặc atropine (neostigmine 50 μg/kg methylsulfate + 10 μg/kg glycopyrrolate (hoặc tỷ lệ liều neostigmine:glycopyrrolate là 5:1) hoặc 20 μg/kg atropine sulfate (hoặc tỷ lệ liều neostigmine:atropine là 2,5:1)); (3) Phong bế thần kinh – cơ sâu và sử dụng sugammadex 4 mg/kg để hồi phục. Phân ngẫu nhiên theo nhóm tuổi: 0 đến 27 ngày tuổi; 28 ngày đến <3 tháng; 3 tháng đến <6 tháng; 6 tháng đến < 2 tuổi và tác nhân NMB (rocuronium/vecuronium) với mục tiêu tối thiểu 20% mỗi nhóm tuổi và 30% nhóm NMB.

Tiêu chí nghiên cứu chính: Thời gian giải phong bế thần kinh cơ (TTNMR) được định nghĩa là thời gian từ khi dùng thuốc đối kháng đến khi đạt được phục hồi thần kinh – cơ đầy đủ theo một trong bốn tiêu chí sau: duy trì nâng đầu chống lại lực cản trong ít nhất 5 giây; (2) duy trì nâng hông chống lại lực cản trong ít nhất 5 giây; Quan sát bốn lần giật cơ (twitches) không suy giảm (hoặc so sánh với mức cơ sở trước phẫu thuật đối với trẻ sơ sinh) thông qua thiết bị giám sát thần kinh cơ (NMTM); (4) tỷ lệ TOF ≥ 0.9 qua thiết bị NMTM.

3. Kết quả nghiên cứu

Dược động học: Tổng cộng có 47 bệnh nhân được đưa vào phân tích dược động học. Nhìn chung nồng độ thuốc khá tương đồng giữa các nhóm tuổi. Không có mối liên quan rõ ràng giữa nồng độ thuốc và hiệu quả của thuốc gợi ý cho thấy liều 2 mg/kg (cho phong bế trung bình) và 4 mg/kg (cho phong bế sâu) là phù hợp để đưa vào nghiên cứu ở phần B.

Kết quả tiêu chí chính của thử nghiệm: Thời gian phục hồi thần kinh cơ (TTNMR)

Sugammadex 2 mg/kg giúp hồi phục phong bế thần kinh – cơ mức trung bình nhanh hơn đáng kể so với neostigmine.  Trong phân tích phần B (so sánh trực tiếp), thời gian hồi phục trung vị (TTNMR) là 1,4 phút với sugammadex so với 4,4 phút với neostigmine (tỷ số nguy cơ 2,40, khoảng tin cậy 95% 1,37-4,18); P = 0,0002). Dựa trên ước tính Kaplan–Meier, 79,3% (23/29) người tham gia được dùng liều 2 mg/kg sugammadex đạt được sự phục hồi thần kinh cơ trong vòng 4 phút so với 41,9% (13/31) người tham gia trong nhóm neostigmine.

Sugammadex 4 mg/kg đảo ngược phong bế sâu nhanh chóng với TTNMR trung vị: 1,1 phút. Dựa trên ước tính Kaplan–Meier, có 96,8% (61/63) bệnh nhi dùng liều sugammadex 4 mg/kg đã đạt được sự phục hồi thần kinh cơ trong vòng 4 phút.

An toàn: Không ghi nhận tử vong, sốc phản vệ hoặc phản ứng quá mẫn liên quan đến thuốc. Tỷ lệ tác dụng phụ tương đương giữa các nhóm (khoảng 61–68%) và thường gặp nhất là đau thủ thuật, nôn ói hay nhịp tim chậm.

4. Kết luận

Sugammadex ở liều 2 mg/kg và 4 mg/kg cho thấy hiệu giải phong bế thần kinh – cơ nhanh, vượt trội so với neostigmine ở trẻ dưới 2 tuổi với khả năng dung nạp tốt và an toàn. Dữ liệu dược động học ổn định giữa các nhóm tuổi cho thấy không cần hiệu chỉnh liều. Các kết quả này ủng hộ việc sử dụng liều sugammadex tương tự như ở trẻ ≥2 tuổi và người lớn cho nhóm đối tượng nhỏ tuổi hơn.

Biên soạn: DS.Nguyễn Thị Hoài Thu, DS. Lê Thị Nguyệt Minh
Nguồn: Anesthesiology, 143(2), 300-312. DOI: 10.1097/ALN.0000000000005535

Chuyên mục: Bản tin thông tin thuốc

Bài viết liên quan

Thời gian làm việc

  • Hành chính: 7h00 - 16h30 (thứ 2 - 6)
  • Khám & Cấp cứu: 24/24

BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
ĐI ĐẦU & DẪN ĐẦU

  • Đội ngũ giáo sư, chuyên gia số 1 trong ngành nhi khoa Việt Nam
  • Cơ sở vật chất, thiết bị y tế hiện đại bậc nhất
  • Các công trình nghiên cứu y khoa dẫn đầu ngành
  • Áp dụng Bảo hiểm y tế, bảo hiểm bảo lãnh đầy đủ
  • Chi phí khám chữa bệnh hợp lý nhất
  • Chăm sóc chu đáo, toàn diện cho trẻ em
Thông tin hữu ích khác