1h sáng, cả nhà chị Mai (Ba Đình, Hà Nội) bế con gái 5 tháng tuổi đi cấp cứu vì bé khóc ngằn ngặt hơn 2 tiếng không dứt. Bác sĩ hỏi han kỹ và chẩn đoán bé bị đau thắt ruột, có thể do thức ăn lạ là chút trứng gà bà nội cho ăn lúc tối.
Chị Ngọc (Cầu Diễn, Hà Nội) chưa bao giờ nghĩ con bị dị ứng sữa bò cho tới khi đưa bé đi làm test da tại Khoa Miễn dịch – dị ứng, Bệnh viện Nhi trung ương. Chị cho biết, con trai 8 tháng tuổi của chị phải vào viện rất nhiều lần vì suy dinh dưỡng do tiêu chảy kéo dài. Bé đã được xét nghiêm rất nhiều lần mà không tìm thấy vi khuẩn, virus hoặc nấm trong phân. Cháu vẫn rối loạn tiêu hóa dù được điều trị bằng các loại men tiêu hóa, tư vấn chế độ ăn uống, bổ sung yếu tố vi lượng. Cuối cùng, bác sĩ Khoa Miễn dịch – dị ứng đã làm test da mới biết cháu dị ứng sữa bò.
Cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn ít nhất 6 tháng đầu là một trong những cách hạn chế nguy cơ bị dị ứng ở trẻ. Ảnh minh họa: MT.
Còn bé Hiếu, 10 tháng tuổi (Ngọc Khánh, Hà Nội) sau khi ăn bột tôm 2 tiếng bỗng da mặt nổi ban đỏ và ngứa, mí mắt phù lên. Các nốt ban đỏ lan xuống thân bé rất nhanh, cháu khó chịu, quấy khóc, ho, khản tiếng. Hiếu được đưa đến viện và được chẩn đoán là mề đay cấp, viêm thanh quản cấp, theo dõi dị ứng thức ăn.
Dị ứng là phản ứng bất thường của hệ miễn dịch với những vật chất mà thông thường đối với người bình thường không gây hại. Dị ứng thức ăn có tỷ lệ cao ở trẻ em, đặc biệt ở trẻ dưới 3 tuổi, và những thực phẩm hay gặp nhất là trứng gà, sữa bò, sữa đậu nành, các loại hạt và cá.
Nguyên nhân là hệ miễn dịch và đường ruột của trẻ còn non yếu, tính thấm của niêm mạc đường tiêu hóa cao, nếu tiếp xúc với những thức ăn có tính dị nguyên cao thì dễ phát triển thành dị ứng.
Ban đỏ, viêm da, mày đay, chàm, đau bụng và rối loạn tiêu hóa là những triệu chứng thường xuất hiện trong các phản ứng dị ứng thức ăn. Một số trường hợp nặng, dị ứng thức ăn có thể gây kịch phát cơn hen phế quản hoặc gây sốc phản vệ, nguy cơ tử vong rất cao.
Theo các nghiên cứu gần đây có đến 40% trẻ nhỏ có nguy cơ dị ứng thức ăn. Tỷ lệ này giảm dần theo tuổi, phụ thuôc vào sự thay đổi môi trường, thói quen ăn uống và cách sống của từng cộng đồng, cá thể.
Điều trị dị ứng như thế nào?
Nguyên tắc điều trị dị ứng là phát hiện ra nguyên nhân gây dị ứng và tránh tiếp xúc với các thứ đó. Nhiều khi phải thay đổi thói quen ăn uống và cẩn trọng hơn trong việc sử dụng thức ăn cho trẻ.
Chẳng hạn, với bé gái 5 tháng tuổi của chị Mai, bác sĩ khuyên chưa cho trẻ ăn trứng gà vội. Sau 6 tháng đến làm xét nghiệm test da hoặc máu để biết trẻ đã hết dị ứng với trứng gà chưa rồi hãy ăn lại.
Trường hợp bé bị dị ứng sữa bò, bác sĩ chỉ định dừng ăn các sản phẩm sữa bò. Sau 2 tuần trẻ hết tiêu chảy và bắt đầu lên cân.
Với bé bị mề đay, viêm thanh quản cấp sau ăn bột tôm, cần tuyệt đối tránh ăn tôm hoặc các sản phẩm có chứa tôm vì triệu chứng viêm thanh quản do dị ứng với tôm có thể nguy hiểm đến tính mạng của trẻ.
Những trẻ nào dễ bị dị ứng?
Tỷ lệ dị ứng ngày càng gia tăng trên thế giới, đặc biệt ở trẻ nhỏ. Dựa vào tiền sử bệnh dị ứng của bố mẹ, chúng ta có thể xác định được nguy cơ dị ứng của trẻ ngay khi còn nằm trong bụng mẹ. Ví dụ nếu cả hai bố mẹ cùng mắc các bệnh dị ứng thì 50-80% con nguy cơ mắc; nếu một trong hai bố mẹ bị dị ứng thì khoảng 20-40% con có nguy cơ bị, và ngay cả khi bố và mẹ không bị dị ứng vẫn có 5-15 % trẻ nguy cơ mắc bệnh.
Ví dụ chồng mắc bệnh viêm mũi dị ứng, vợ bị nổi mày đay mỗi khi ăn tôm, nếu hai vợ chồng sinh con thì trên 50% khả năng con sẽ mắc dị ứng.
Vậy những trẻ nào cần chú ý đề phòng dị ứng? Đó là những trẻ sinh ra trong các gia đình có cả bố và mẹ bị dị ứng hoặc một trong hai bố mẹ bị dị ứng. Đây được gọi là nhóm trẻ có nguy cơ cao.
Dị ứng có thể phòng tránh được không?
Chúng ta không nên chờ khi con mình xuất hiện các triệu chứng dị ứng rồi mới phòng tránh. Những trẻ bị dị ứng thức ăn khi nhỏ sẽ có nguy cơ cao hơn mắc các bệnh dị ứng khác trong suốt cuộc đời, như viêm mũi dị ứng, chàm hoặc hen phế quản. Các nhà khoa học gọi đó là “tiến trình dị ứng”.
Vì vậy, dựa vào tiền sử gia đình để xác định nguy cơ dị ứng cho trẻ ngay từ khi mang thai là cần thiết. Nếu xác định trẻ có nguy cơ cao nên sử dụng các phương pháp phòng ngừa dị ứng sớm qua chế độ ăn:
– Bú mẹ hoàn toàn ít nhất 6 tháng, loại bỏ các dị nguyên thức ăn trong chế độ ăn của mẹ.
– Trường hợp không có sữa mẹ nên sử dụng các công thức sữa giảm tính dị ứng với đạm thủy phân một phần, tránh sử dụng sữa bò.
– Không nên cho trẻ ăn dặm sớm trước 6 tháng tuổi. Khi trẻ ăn dặm nên làm quen với các loại thức ăn từ từ, ăn một loại thức ăn mới mỗi tuần để theo dõi và tránh các loại thức ăn dễ gây dị ứng như: lòng trắng trứng, lạc, hải sản (tôm, cua, sò điệp khô và tươi). Những thức ăn này nên tập cho trẻ ăn sau 12 tháng tuổi.
Trưởng khoa Miễn dịch-Dị ứng-Khớp, Bệnh viện Nhi Trung ương